[ad_1]
Ngân hàng cát ĐBSCL đã tập trung nghiên cứu vào 4 yếu tố trọng yếu nhất gồm: lượng cát bồi đắp cho ĐBSCL; lượng cát đổ ra biển; lượng cát khai thác trong ĐBSCL; lượng cát hiện có ở đáy các dòng sông.
Kết quả ước tính trong khoảng thời gian từ 2017-2022, bình quân mỗi năm hoạt động khai thác cát ở ĐBSCL đã lấy đi khỏi các nhánh sông từ 35-55 triệu m³. Trong khi “đầu vào” tức là lượng cát bồi đắp từ thượng nguồn sông Mê Kông cho khu vực này chỉ còn 2-4 triệu m³/năm. Bên cạnh đó là lượng cát rời khỏi đồng bằng đổ ra Biển Đông được ghi nhận từ 0-0,6 triệu m³/năm.
Qua các dữ liệu trên có thể thấy bình quân mỗi năm lượng cát mà sông Mê Kông bổ sung cho ĐBSCL chỉ bằng 1/15 lượng cát bị khai thác khỏi lòng sông. Hay nói cách khác, cán cân bồi đắp và khai thác cát ở ĐBSCL đang mất cân bằng khủng khiếp khi hoạt động khai thác đang khiến khu vực này thâm hụt bình quân lên đến hơn 42 triệu m³ cát/năm. Tất nhiên, gần như không có bất cứ giải pháp nào có thể bù đắp được lượng cát thâm hụt này bởi rõ ràng đâu ai mang cát đổ xuống sông. Chỉ có những con sông sẽ phải tự tìm cách lấy lại những gì đã mất, dòng chảy sẽ lẹm vào bờ để khỏa lấp, để tái phân phối cho lòng sông đã bị khoét sâu.
Trao đổi với PV Thanh Niên về cách tính toán các dữ liệu của Ngân hàng cát, ông Hà Huy Anh, Quản lý quốc gia Dự án khai thác cát bền vững của WWF-Việt Nam cho biết, để biết được con số 2-4 triệu m³ bồi đắp cho ĐBSCL, nghiên cứu sử dụng phương pháp đo hồi âm đa tia quét dưới đáy sông. Ở cửa ngõ sông Tiền là TX.Tân Châu (An Giang) và cửa ngõ sông Hậu ở TP.Châu Đốc (An Giang). Từ dữ liệu đo đa tia, sau đó, các chuyên gia tư vấn Deltares (Hà Lan) sử dụng mô hình toán, hiệu chỉnh, tính toán để biết được lượng cát đổ về ĐBSCL là bao nhiêu.
Kết quả cho thấy lượng cát đổ về ĐBSCL phụ thuộc rất nhiều vào lưu lượng, vận tốc dòng chảy cũng như hiện tượng xói mòn ở thượng nguồn. Cho nên vào mùa khô, lượng cát về ĐBSCL rất ít. Ngược lại vào mùa mưa, kết quả đo ở 12 trạm dọc theo nhánh sông chính ở ĐBSCL cho thấy có 7/12 trạm có sóng cát dài hơn 15m để đo đếm, 5 trạm không đủ để ghi nhận.
Cũng theo ông Huy Anh, để có được dữ liệu lượng cát khai thác mỗi năm, nghiên cứu đã sử dụng ảnh vệ tinh chụp các tàu khai thác cát với thông số chiều rộng, chiều dài, số lượng cần cẩu khai thác cát đang hoạt động. Dữ liệu này được kiểm chứng, kết hợp dữ liệu khảo sát hiện trường về số lượng xáng cạp, mức độ khai thác, trữ lượng mỗi loại gàu múc cát, tần suất hoạt động… từ đó tính toán ra con số 1 năm trữ lượng là bao nhiêu.
Riêng về lượng cát đổ ra biển 0-0,6 triệu m³ cũng được tính bằng cách sử dụng thiết bị hồi âm đa tia kết hợp cùng mô hình toán. “Lượng cát ít ỏi này sẽ được thủy triều, sóng biển phân phối khắp duyên hải ĐBSCL. Qua nhiều năm sẽ hình thành nên các cồn cát ngoài biển có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ sự ổn định của bờ biển”, ông Huy Anh nói.
[ad_2]